Saturday, March 3, 2007

Trả lời phỏng vấn Free News Agency(FNA)

Tường trình của FNA từ Hà Nội:

Chính quyền cộng sản Việt Nam điên cuồng đàn áp luật sư Nguyễn Văn Đài.

Hơn một tháng qua, chính quyền cộng sản Việt Nam đã điên cuồng tìm mọi cách để đàn các nhà dân chủ ở Việt Nam, mở đầu là ngày 3-2-2007, an ninh cộng sản tấn công bất hợp pháp vào Văn phòng luật sư Thiên Ân trong khi luật sư Lê Thị Công Nhân đang giúp cho một số sinh viên tìm hiểu về nhân quyền. Ngay trong đêm 3-2 an ninh cộng sản tiến hành khám xét Văn phòng, thu giữ tài sản và tài liệu của cá nhân luật sư Nguyễn Văn Đài. Chiều ngày 4-2 an ninh cộng sản tiến hành khám nhà luật sư Nguyễn Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân, thu giữ tài sản và tài liệu của cá nhân hai luật sư. Những ngày tiếp theo an ninh cộng sản liên tục triệu tập để thẩm vấn hai luật sư.

Dưới sức ép của an ninh cộng sản, ngày 10-2-2007, Ban chủ nhiệm và đại diện Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư Hà Nội đã mời luật sư Nguyễn Văn Đài đến làm việc vào ngày 12-2-2007. Hôm đó luật sư có hẹn bác sĩ từ trước nên không tới.

An ninh cộng sản cũng đã gây sức ép với Phòng đăng ký kinh doanh thuộc sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội để ra quyết định và thông báo thông thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH Dịch thuật và Tư vấn Việt Luật vào ngày 28-2-2007, ông Nguyễn Văn Đài là một thành viên sáng lập và là giám đốc điều hành của công ty.

Ngày 1-3-2007, Ban chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư Hà Nội viết giấy mời lần 2 để mời luật sư Nguyễn Văn Đài đến làm việc vào ngày 12-3-2007.

Phóng viên của FNA đã gặp luật sư Nguyễn Văn Đài để tìm hiểu quan điểm của ông về những sự việc đã và đang diễn ra với cá nhân ông.

Luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết ông là luật sư thuần tuý hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo, trong đó ông có quan hệ và giúp đỡ pháp lý cho hầu hết các nhà đấu tranh dân chủ trong nước, điều này làm cho chính quyền cộng sản hết sức tức giận, trong cả năm 2006 không biết bao nhiêu lần họ triệu tập để thẩm vấn, họ cho người theo dõi, giám sát thường xuyên, điện thoại, internet thường xuyên bị cắt, ông cũng nhớ nổi mình đã bị cắt bao nhiêu số điện thoại, gần đây nhất ngày 23-2-2007, họ đã cắt cùng lúc 6 số máy điện thoại của Công ty và nhân viên.

Về việc an ninh cộng sản đang điều tra ông theo điều 88 Bộ luật hình sự, ông cho biết tất cả những tài liệu mà an ninh cộng sản thu giữ tại nhà riêng và trụ sở của Văn phòng luật sư đều là tài liệu có trên mạng internet toàn cầu, ai cũng có thể có được. Hiến pháp Việt Nam qui định công dân có quyền được thông tin, do vậy ông cũng như những người Việt Nam khác đều có quyền tiếp cận những thông tin nó, có quyền lưu trữ để nghiên cứu mà không hề vi phạm pháp luật. Theo tinh thần của điều 88, thì chỉ những người nào sử dụng các tài liệu đó nhằm mục đích chống lại nhà nước tức là chống lại các cơ quan trong hệ thống lập pháp, hành pháp và tư pháp bằng hình thức kêu gọi bạo động hay vũ trang bất hợp pháp thì mới coi là vi phạm. Còn sử dụng những tài liệu đó với mục đích đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền nhằm mục đích xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì nên được nhà nước khen thưởng.

Về việc phòng đăng ký kinh doanh(ĐKKD) ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH Dịch thuật và Tư vấn Việt Luật, luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết phòng ĐKKD đã nhầm lẫn khi cho rằng Công ty của ông kinh doanh các tài liệu đó. Khoản 3 điều 7 Luật doanh nghiệp qui định: “ Cấm hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và sức khoẻ của nhân dân, làm huỷ hoại tài nguyên, phá huỷ môi trường”. Ở đây thứ nhất Công ty của luật sư Đài không kinh doanh các tài liệu có nội dung đó, thứ hai là chưa có kết luận của cơ quan nào nói rằng những tài liệu thu giữ tại trụ sở Công ty là có nội dung chống nhà nước Việt Nam. Theo luật sư Nguyễn Văn Đài những tài liệu đó là về nhân quyền và dân chủ và quan trọng hơn các tài liệu đó là của cá nhân ông, không phải của công ty. Khi nói đến kinh doanh thì phải có hoạt động mua bán trao đổi, nhưng ở đây công ty của ông Đài không làm việc đó, an ninh cộng sản không chứng minh được việc đó.

Luật sư Đài cho biết thêm, công ty của ông có một người quốc tịch Mỹ gốc Việt đầu tư, cho nên ông sẽ đề nghị chính phủ Mỹ can thiệp vào việc này vì liên quan đến công dân của họ đầu tư vào Việt Nam. Từ việc chính quyền cộng sản muốn đàn áp một công dân Việt Nam đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền, họ đã xâm phạm đến công việc đầu tư, kinh doanh của người nước ngoài mà ở đây là công dân Hoa Kỳ. Do vậy, chính quyền cộng sản sẽ gặp rắc rối trong chuyện này.

Về việc Ban chủ nhiệm và Hội đồng khen thưởng kỷ luật của Đoàn luật sư mời lên làm việc. Luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết rằng từ lâu cộng sản Việt Nam đã nhiều lần muốn xoá bỏ chữ luật sư đi kèm với tên tuổi của ông, phía đoàn luật sư luôn nói ông dùng danh nghĩa luật sư để làm những công việc không đúng. Nhưng họ không hiểu rằng ông còn là thành viên của nhiều tổ chức luật sư quốc tế như Advocates International Association( Hiệp hội luật sư Cơ Đốc Quốc tế), Advocates Asia( Hội luật sư Cơ Đốc Châu Á) nên không nhất thiết ông phải sử dụng danh nghĩa là thành viên của Đoàn luật sư Hà Nội. Cho dù ông không là thành viên của Đoàn luật sư Hà Nội thì danh nghĩa luật sư vẫn gắn với ông suốt cuộc đời.

Khi được hỏi là luật sư có chuẩn bị tinh thần nếu chính quyền cộng sản gây sức ép buộc Đoàn luật sư Hà Nội khai trừ ông ra khỏi Đoàn không? Luật sư Đài cho biết là ông đã nghĩ đến điều đó từ khi dấn thân vào hoạt động đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Ông nhấn mạnh rằng chừng nào Việt Nam chưa có tự do, dân chủ thì bản thân ông cũng không thể hành nghề luật sư để kiếm tiền được, ông sử dụng nghề nghiệp của mình chủ yếu để giúp cho bà con dân oan và lên tiếng bênh vực cho những người hoạt động tôn giáo và các nhà dân chủ khi họ bị sách nhiễu.

Luật sư Đài nói tiếp: “ Dường như chính quyền cộng sản đang nỗ lực đào luyện và thúc đẩy tôi trở thành một người hoạt động chính trị chuyên nghiệp, họ không muốn tôi hoạt động như một luật sư chuyên về nhân quyền và tự do tôn giáo.”

Khi được hỏi là luật sư sẽ làm gì khi ông không còn Văn phòng luật sư để hành nghề và công ty để kinh doanh. Luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết: Trước hết tôi sẽ tranh đấu đến cùng để bảo quyền tự do kinh doanh và quyền hành nghề luật sư của mình. Trong trường hợp chính quyền cộng sản bất chấp pháp luật để tước quyền kinh doanh và hành nghề luật sư của tôi, tôi đã có nhiều phương án để lựa chọn, nhưng có lẽ tất cả mọi người kể cả những người cộng sản đều đang muốn tôi trở thành một chính trị gia để vận động quần chúng và đấu tranh trực tiếp cho công cuộc dân chủ hoá Việt Nam. Trong thâm tâm tôi luôn muốn mình chỉ là một luật sư nhân quyền, nhưng có lẽ hoàn cảnh lịch sử không muốn như vậy. Tôi còn đủ thời gian để cầu nguyện xin Thượng Đế soi sáng cho tôi trong quyết định cuối cùng. Dù tôi sẽ làm gì thì tôi luôn mong muốn nhận được sự cổ vũ và ủng hộ của nhân dân trong nước, đồng bào hải ngoại và cộng đồng quốc tế. Cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam còn dài và sẽ trải qua nhiều khó khăn, nhưng đó là con đường chân lý và chính nghĩa, sẽ được nhân dân trong nước đồng lòng ủng hộ và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế nên nhất định sẽ thắng lợi.”

Phóng viên FNA thực hiện ngày 3 tháng 3 năm 2007.

Thursday, March 1, 2007

Trả lời phỏng vấn Đài Chân Trời mới ngày 2-3-2007

Chân Trời mới:

Dạ thưa LS Nguyễn Văn Đài, trước hết xin LS cho biết vài cảm nghĩ về những cuộc đình công của người lao động Việt Nam dồn dập xảy ra tại Việt Nam từ cuối năm 2005 và kéo dài sang 2006? Và theo LS thì những sự kiện trên nói lên được điều gì về thực trạng xã hội, bối cảnh chính trị và đời sống của người lao động Việt Nam hiện tại?


LS Nguyễn Văn Đài:

Thưa chị Nguyệt Như, vào những tháng cuối năm 2005 và đầu năm 2006, khi biết tin hàng trăm nghìn công nhân trên cả nước đình công để đòi hỏi việc tăng lương, nâng cao đời sống của họ. Tôi thực sự buồn trước việc các tổ chức công đoàn của đảng cộng sản đại diện cho quyền lợi của người lao động, một số tổ chức công đoàn thì thông đồng với giới chủ để bóc lột người lao động, một số thì bất lực để giới chủ bóc lột các thành viên của mình. Đó là sự yếu kém của các tổ chức công đoàn do đảng cộng sản lãnh đạo. Sự yếu kém đó đã làm cho cuộc sống của hàng trăm nghìn người công nhân và gia đình của họ vô cùng khổ cực, họ phải làm việc vất đến 12 giờ một ngày mà không đủ sống. Cuộc sống khổ cực của người công nhân đồng nghĩa với việc thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chính quyền của đảng cộng sản ở địa phương, một đảng mà lúc nào cũng nhân danh là đại diện của tầng lớp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng thực chất thì họ chỉ lo cho lợi ích của bản thân và đồng đảng của họ. Đó là thực trạng đã sảy ra ở Việt Nam vào thời điểm đó.

Chân Trời mới:

Đối với luật lao động Việt Nam năm 1994, được tu chính năm 2002, thì theo LS đánh giá, trên mặt lý thuyết có những điểm gì đáng nói? Còn về thực hành thì như thế nào? Luật sư có nghĩ là luật lao động này sẽ được tôn trọng và bảo vệ không?

LS Nguyễn Văn Đài:

Trong cả hệ thống pháp luật của Việt Nam thì Bộ luật lao động được đánh giá là có tiến bộ nhất, gần sát với chuẩn mực quốc tế, trừ những qui định liên quan đến quyền đình công của người công nhân. Bởi chính quyền cộng sản sợ rằng việc sảy ra các cuộc đình công sẽ ảnh hưởng đến ổn định chính trị của họ. Do vậy những qui định về thủ tục đình công hết sức khắt khe, đến mức người công nhân không thể thực hiện đúng thủ tục được. Nên khi tổng kết về tính chất hợp pháp các cuộc đình công trong năm 2005 và 2006 thì có đến trên 95% các cuộc đình công là vi phạm luật.

Trên thực tế, các cuộc tranh chấp lao động sảy ra mà được toà án giải quyết, thường thì phần thắng nghiêng về phía người lao động. Chỉ một số ít vụ do có vấn đề tiêu cực của toà án mà người lao động đã bị thiệt thòi quyền lợi.

Chân Trời mới:

Xin LS cho biết vai trò của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam trong trách nhiệm đại diện và bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam? Người lao động Việt Nam có nên trông cậy gì vào Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam không, thưa LS?

Nguyễn Văn Đài:

Theo luật công đoàn năm 1990 của Việt Nam thì có đến 10 Điều qui định về quyền và trách nhiệm của công đoàn. Trong đó có những quyền như để bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam(TLĐLĐVN) có quyền trình dự án luật, pháp lệnh ra trước Quốc hội. Như vậy TLĐLĐVN có rất nhiều quyền lực để bảo vệ cho người lao động, nhưng trên thực tế, họ không làm được bao nhiêu công việc. Quyền lợi của người công nhân vẫn bị xâm phạm ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Người công nhân không thể trông cậy vào TLĐLĐVN, họ cần phải đấu tranh để dành quyền tự do thành lập lên tổ chức Công đoàn của riêng họ, để bảo vệ cho quyền và lợi ích của chính họ.

Chân Trời mới:

Theo LS thì hiện nay có bao nhiêu công đoàn đang thật sự hoạt động độc lập? Họ có đạt được thành quả gì đáng kể không? Họ có bị đàn áp không? Và nếu như chế độ chưa ra tay đàn áp họ như các tổ chức đấu tranh khác thì tại sao vậy?

LS Nguyễn Văn Đài:

Hiện nay ngoài TLĐLĐVN thì chỉ có một tổ chức Công đoàn Độc lập vừa được thành lập tháng 10 năm 2006. Hiện nay Công đoàn Độc lập chưa có hoạt động nào đáng kể từ khi được thành lập do khó khăn về tài chính, cũng như sự kiểm soát gắt gao và sách nhiễu của chính quyền cộng sản. Công đoàn Độc lập chưa bị một chiến dịch đàn áp qui mô nào, có lẽ là do CĐĐL chưa có hoạt động chính thức, hiện nay CĐĐL đang trong quá trình huấn luyện cán bộ công đoàn.

Chân Trời mới:

Trong vai trò là một người hiểu rõ pháp luật Việt Nam thì những người như luật sư có thể làm gì để giúp cho người lao động Việt Nam? Và làm thế nào để nhiều người trong cùng lãnh vực chuyên môn như luật sư quan tâm hơn đến việc bảo vệ người lao động nói riêng và pháp luật tại Việt Nam nói chung?

LS Nguyễn Văn Đài

Văn phòng luật sư của tôi thường xuyên tư vấn giúp cho người lao động và cử luật sư bảo vệ quyền lợi cho họ trước toà án. Những vụ việc chúng tôi tham gia hầu hết quyền lợi của người lao động đã được bảo vệ. Bởi người lao động rất nghèo nên đa phần là chúng tôi tư vấn miễn phí cho họ. Do đó cũng rất khó để các luật sư khác tham gia tư vấn cũng như bảo vệ miễn phí cho người lao động. Thường các luật sư thích bảo vệ cho bên giới chủ, bởi họ có tiền trả phí cho luật sư.

Chân Trời mới:

Theo LS dự đoán thì phong trào đấu tranh của người lao động trong năm 2007 sẽ như thế nào so với năm 2006? Và những người quan tâm cần phải làm gì để đưa phong trào đấu tranh đi lên, thưa luật sư?

LS Nguyễn Văn Đài:

Theo thông tin từ báo chí trong nước, thì trong năm 2007 lương của người lao động ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không tăng. Trong khi giá cả các mặt hàng thiết yếu cho đời sống của người lao động tăng nhanh, do vậy đời sống của người lao động sẽ tiếp tục bị khó khăn. Nếu không cải tiền lương thì cuối năm 2007 sẽ lại có các cuộc đình sảy ra trên qui mô cả nước.

Công đoàn Độc lập là một tổ chức độc lập với đảng cộng sản, trực tiếp bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Do vậy để giúp cho phong trào đấu tranh của người lao động đi lên thì CĐ ĐL rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ về mọi mặt của cộng đồng quốc tế và cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Chân Trời mới:

Theo LS thì những yếu tố căn bản nào cần phải có trong một thể chế chính trị để quyền lợi của người lao động nói riêng và toàn thể dân chúng nói chung được tôn trọng và bảo vệ một cách đúng đắn và hợp pháp?

LS Nguyễn Văn Đài:

Để cho quyền lợi của người lao động nói riêng và của nhân dân được tôn trọng và bảo vệ một cách đúng đắn và hợp pháp thì điều đầu tiên phải xây dựng lên một Nhà nước có thiết chế dân chủ, trong đó người dân có quyền tự do lựa chọn người đại diện cho mình thông qua một cuộc bầu cử tự do, dân chủ, đa đảng và công bằng. Từ đó người dân sẽ có quyền tự do thành lập lên các tổ chức, đảng phái để bảo vệ quyền lợi cho chính họ.

Chân Trời mới:

Trong một chính thể mà nhà nước đàn áp luôn cả những người bảo vệ luật pháp như luật sư chỉ vì lên tiếng phản đối sự vi phạm pháp luật của họ, như đã xảy ra trong những ngày qua, thì làm sao để bảo đảm luật pháp và hiến pháp được thi hành đúng đắn, thưa LS?

LS Nguyễn Văn Đài:

Trong chế độ độc đảng cộng sản cầm quyền thì hiến pháp và luật pháp không bao giờ được thi hành đúng đắn. Chính quyền cộng sản sẵn sàng dẫm đạp lên pháp luật để đàn áp người dân khi họ có tiếng nói phản đối những bất công trong xã hội do chính chế độ cộng sản đó gây ra. Vì vậy chỉ có một con đường duy nhất là dấn thân mình vào công cuộc đấu tranh cho tư do, dân chủ và nhân quyền. Xây dựng lên một Nhà nước dân chủ đa đảng, trong đó mọi đảng phái, tổ chức chính trị và mọi người dân đều bị cai trị bởi luật pháp. Đó là giải pháp duy nhất để cho công lý được thực thi ở Việt Nam.

Wednesday, February 28, 2007

Trả lời phỏng vấn Đài VOA

Giới hữu trách Việt Nam đã quyết định khởi tố Linh mục Nguyễn Văn Lý, một tu sĩ Công giáo bất đồng chính kiến, về tội gọi là “Tuyên truyền chống nhà nước.”

Tường thuật của các hãng thông tấn AFP, AP và Reuters hôm thứ hai trích thuật tin tức của các cơ quan truyền thông nhà nước Việt Nam nói rằng: ngoài việc quyết định khởi tố vụ án nhắm vào Linh mục Nguyễn Văn Lý, chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế, cũng đã quyết định thực hiện điều mà họ gọi là “thay đổi nơi quản chế hành chánh đối với bị can Lý.”

Nguồn tin của các nhân vật tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền Việt Nam cho biết mới đây, vị Linh mục năm nay 59 tuổi này đã bị công an đến bắt tại Nhà Chung của Giáo Phận Huế và áp giải tới Nhà Thờ Bến Củi, một họ đạo bị cô lập nằm cách thành phố Huế khoảng 20 km.

Các nhân vật đối kháng nói rằng việc thuyên chuyển một linh mục Công giáo là quyền hạn của giám mục, nhưng Linh mục Lý đã bị đưa đi nơi khác mà không có sự chấp thuận của vị giám mục địa phận Huế.

Bản tin hôm chúa nhật của một hãng tin trên mạng ở Việt Nam cho biết: Linh mục Lý đã tuyên bố tuyệt thực cho đến ngày 26 tháng 3 năm 2007 và ông thanh thản chờ đợi lần thứ 3 đối diện với Tòa án của chính quyền Cộng sản Việt Nam.

Theo tố cáo của nhà cầm quyền Hà Nội: Linh mục Nguyễn Văn Lý, người mà họ gọi là “đang phải chấp hành lệnh quản chế hành chánh tại chỗ sau khi được đặc xá hồi đầu năm 2005”, đã “cấu kết với những phần tử phản động trong và ngoài nước để chống đối nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.”

Tin của Thông Tấn Xã Việt Nam và đài truyền hình VTV1 ở Hà Nội nói rằng Linh mục Lý đã lôi kéo ông Nguyễn Phong và một số người khác thành lập Đảng Thăng Tiến, sau đó cùng với Đảng Vì Dân ở hải ngoại thành lập “Liên Đảng Lạc Hồng” và dự định tổ chức công khai hóa đảng này vào đêm giao thừa Tết Đinh Hợi.

Báo chí Việt Nam cũng xác nhận vụ trấn áp nhắm vào Linh mục Lý hôm 18 tháng 2 và cho biết rằng: khi tiến hành kiểm tra hành chánh nơi ở của Linh mục Lý, công an đã “thu giữ 6 máy tính, sáu máy in, hàng chục điện thoại kết nối internet, trong đó có 136 sim điện thoại di động và hơn 200 kg giấy tờ, tài liệu.”

Theo các cơ quan thông tấn quốc tế, vụ trấn áp Linh mục Nguyễn Văn Lý diễn ra trong lúc Hà Nội và Tòa thánh Vatican đang thảo luận về việc thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong vài năm gần đây, có dấu hiệu cho thấy mối quan hệ giữa đôi bên đã bớt căng thẳng và tháng giêng vừa qua thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được Đức giáo hoàng Benedicto 16 tiếp kiến.

Tưởng cũng nên nhắc lại rằng vị tu sĩ bất đồng chính kiến này đã bị giới hữu trách Việt Nam bắt giữ sau khi gởi thư điều trần trước quốc hội Hoa Kỳ về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam năm 2001.

Ông bị tuyên án 15 năm tù về tội gọi là “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân”, nhưng được thả ra khỏi tù trong đợt đặc xá hồi tháng 2 năm 2005. Trước đây, đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội vẫn thường xuyên theo dõi sự đối xử của giới hữu trách Việt Nam đối với Linh mục Lý, nhưng hôm thứ hai, các giới chức sứ quán đã từ chối bình luận về những diễn tiến mới này.

Bên cạnh vai trò là một nhà lãnh đạo tinh thần của Đảng thăng tiến và Liên đảng Lạc Hồng. Linh mục Tadeo Nguyễn Văn Lý còn là thành viên của một phong trào dân chủ được thành lập ở Việt Nam hồi tháng Tư năm ngoái, có tên là Khối 8406.

Mới đây, một thành viên của khối này ở Hà Nội, luật sư Nguyễn Văn Đài đã dành cho Ban Việt Ngữ đài VOA cuộc phỏng vấn sau đây. Xin mời quí vị bấm vào đường dẫn sau đây để nghe hoặc tải xuống bài phỏng vấn luật sư Nguyễn Văn Đài:

Tòa Soạn Đối Thoại (doi-thoai.com): Đối Thoại đã sao chép bài phỏng vấn từ các chương trình phát thanh cuả VOA. Trong mục đích gởi đến độc giả các bài phỏng vấn bằng dạng viết thật nhanh, nếu có sự sơ sót , xin tác giả , độc giả và đài VOA thông cảm. Mời độc giả nghe lại buổi phát thanh để hiệu đính các chỗ sai trước khi sử dụng.

VOA: Như luật sư vẫn biết thì lâu nay chính quyền Việt Nam vẫn thường xuyên lục soát nhà cửa của các nhân vật tranh đấu cho tự do dân chủ ở trong nước, nhưng hầu như không có vụ nào được báo chí nhà nước loan tin. Nhưng lần này thì vụ lục soát nơi cư ngụ của linh mục Nguyễn Văn Lý được các cơ quan Việt Nam loan tin rất rộng rãi, ngay cả trên truyền hình cũng có loan tin. Luật sư có nhận xét như thế nào trước sự kiện này.

Ls Nguyễn Văn Đài: Theo đánh giá của cá nhân tôi thì qua sự việc họ bắt giữ một số thành viên của đảng Thăng Tiến tại Huế, trong đó có Nguyễn Phong là trưởng đại diện. Sau nhiều ngày thẩm vấn và sau khi họ cho anh xem cuốn băng video về việc khám xét phòng ở của linh mục Nguyễn Văn Lý và họ nói rằng linh mục Nguyễn Văn Lý đã đầu hàng thì tinh thần của anh Nguyễn Phong suy sụp hoàn toàn và anh đã quyết định rời bỏ cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của đất nước.

Qua sự việc của anh Nguyễn Phong thì có lẽ giới an ninh cộng sản đánh giá rằng đối với phong trào dân chủ ở trong nước thì cha Lý là linh hồn, là người nắm vai trò quyết định và có ảnh hưởng lớn đến tất cả các thành viên khác. Cho nên họ đã quyết định khởi tố lm Nguyễn Văn Lý theo điều 88 của Bộ luật hình sự, cũng như công bố trên truyền hình cũng rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mục đích duy nhất của họ là nhằm lung lạc tinh thần đấu tranh của các nhà đấu tranh cho dân chủ khác. Nhưng theo quan điểm của tôi thì đánh giá của họ là sai lầm. Bởi vì linh mục Nguyễn Văn Lý chỉ ảnh hưởng đến một số thành viên của đảng Thăng Tiến cũng như một số thành viên của Khối 8406 thôi. Còn những nhóm hoạt động đấu tranh cho tự do dân chủ ở Việt Nam, đặc biệt là ở Sài Gòn thì họ hoạt động hoàn toàn độc lập với nhóm của linh mục Nguyễn Văn Lý. Cũng như các nhà đấu tranh dân chủ ngoài Bắc, ở Hà Nội và Hải Phòng thì cũng hoạt động rất độc lập. Cho nên việc họ khởi tố đối với linh mục Nguyễn Văn Lý với mục đích nhằm đánh vào tinh thần của phong trào dân chủ ở trong nước là hoàn toàn sai lầm. Điều đấy hoàn toàn không đúng. Theo tôi, mục đích của họ là như vậy.

VOA: Với tư cách là một người đã tranh đấu để bảo vệ cho nhân quyền Việt Nam và cổ xướng cho dân chủ tự do ở Việt Nam, và chính bản thân ông cũng đã từng bị trải qua nhiều hành động sách nhiễu, đàn áp của chính quyền CSVN. Trước tình hình trấn áp có vẻ gia tăng của giới hữu trách Hà Nội đối với phong trào dân chủ trong nước thì luật sư có ý kiến như thế nào ạ?

Ls Nguyễn Văn Đài: Việc chính phủ CSVN đã để cho các phong trào dân chủ ở trong nước được tự do phát triển trong năm 2006, đồng nghĩa với việc ra đời của khối 8406, Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam cũng như một số chính đảng là để họ nhằm mục tiêu là tổ chức thành công hội nghị APEC vào tháng 11, cũng như để các nước đồng ý cho Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO. Nhưng sang đến năm 2007 thì họ đã có rất nhiều hành động trấn áp nhằm vào những nhà đấu tranh dân chủ. Tôi cho rằng đây là một sự thách thức, không chỉ đối với phong trào đấu tranh dân chủ trong nước mà còn thách thức cả cộng đồng quốc tế nữa. Bởi vì nếu cộng đồng quốc tế mà không có những phản ứng hoặc không có sự lên án đối với những hành động trấn áp phong trào dân chủ trong nước thì chính quyền CSVN sẽ dám làm tới. Họ có thể tiêu diệt toàn bộ phong trào đấu tranh trong nước.

Qua sự kiện này chúng tôi mong muốn rằng cộng đồng quốc tế có tiếng nói quan trọng hơn nữa đối với công cuộc dân chủ hóa của Việt Nam.

Tuesday, January 30, 2007

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CÓ GÌ ĐỂ HỌC?

Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh có gì để học?

Nguyễn Văn Đài, luật sư từ Hà Nội

www.nguyenvandai.blogspot.com

Ngày nay những gì được gọi là tư tưởng của Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng lý luận, và là chỗ dựa tinh thần cũng như để che đậy sự cai trị độc đoán, chuyên quyền của đảng cộng sản Việt Nam. Gần đây bộ chính trị cộng sản đã ra chỉ thị 06-CT/TW để yêu cầu toàn dân học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, tiếp theo ngày 16-1-2007 ra quyết định số 35-QĐ/TW thành ban chỉ đạo trung ương cuộc vân động toàn dân học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Vậy Hồ Chí Minh có tư tưởng gì mà những người cộng sản phải tiêu tốn nhiều tiền của của nhân dân để nghiên cứu rồi bắt học sinh, sinh viên, nay là là toàn dân học tập. Sau khi tôi đã đọc quyển giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do nhà xuất bản chính trị quốc gia phát hành tháng 8 năm 2006 và đọc một số cuốn sách viết về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tôi chỉ thấy trong con người của Hồ Chí Minh có hai nhận thức quan trọng nhất và mang tính nền tảng trong cả cuộc đời hoạt động chính trị của ông, nhưng trong suốt 60 năm qua đảng cộng sản Việt Nam đã cố tình quên lãng, không áp dụng trong đường lối của họ. Hai nhận thức quan trọng đó là: Nhận thức về tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của Đại cách mạng Pháp, Nhận thức thứ hai đó là về tư tưởng dân chủ, về giá trị quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh không có những tư tưởng của riêng mình, mà ông chỉ tiếp thu và làm theo tư tưởng của những người đi trước như Mác, Lê Nin, Mao.

Nhận thức về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ đã được Hồ Chí Minh thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập được đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Và trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam năm 1946.

Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cộng hoà Pháp năm 1789, điều này cho thấy Hồ Chí Minh mong muốn xác lập vững chắc những nguyên tắc bảo vệ quyền cá nhân con người trước quyền lực, khẳng định các quyền tự nhiên không thể bị tước đoạt của mỗi người. Hồ Chí Minh còn mong muốn xây dựng nhà nước dựa trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và có nghĩa là: “Để đảm bảo cho các quyền này, con người thiết lập ra các chính phủ và chính sức mạnh của các chính phủ này là xuất phát từ sự ưng thuận của nhân dân. Và khi một hình thức chính phủ nào đó trở nên đối nghịch với các mục đích trên thì nhân dân có quyền thay đổi, hay phế bỏ chính phủ đó, và thiết lập nên một chính phủ mới, dựa trên nền tảng những nguyên tắc như vậy và tổ chức các quyền lực của mình theo hình thức nào đó để cho các quyền lực ấy có khả năng đảm bảo an ninh và hạnh phúc cho họ nhiều nhất.”

Trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946, thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng xã hội Việt Nam trên nền tảng dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hiến pháp năm 1946 xây dựng trên ba nguyên tắc:

“ - Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân và do nhân quyết định”.

Hiến pháp 1946 khẳng định ngay trong điều đầu tiên là: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.”

Điều đó có nghĩa mọi người dân Việt Nam đều có quyền tham gia chính trị thông qua các đảng phái chính trị mà họ là thành viên hoặc với tư cách độc lập. Và việc đảng phái chính trị nào lãnh đạo đất nước phải do toàn dân lựa chọn và quyết định thông qua cuộc bầu cử tự do dân chủ.

Tóm lại trong cả cuộc đời hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh, ông ấy đã tiếp thu hai tư tưởng về nhân quyền và dân chủ có giá trị kinh điển từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cộng Hoà Pháp năm 1789 để áp dụng vào việc xây dựng đất nước Việt Nam dân chủ với thể chế chính trị đa đảng, tôn trọng phẩm giá của con người tức là tôn trọng những quyền tự nhiên, bất khả xâm phạm và thiêng liêng của mỗi con người. Và xây dựng chính quyền của dân, do dân và vì dân. Đáng tiếc, đảng cộng sản Việt Nam sau khi nắm được quyền lực, họ đã thực hiện nền chuyên chính của mình, thực hiện chế độ độc đảng cầm quyền, hạn chế và tước bỏ đi những quyền căn bản nhất con người như: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài, tự do biểu tình….

Nay, để duy trì sự lãnh đạo độc đảng của minh, đảng cộng sản Việt Nam kêu gọi, vận động toàn dân học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh, điều nay không thực tế, bởi chính đảng viên đảng cộng sản phải là những người phải học, và phải thấm nhuần những giá trị về dân chủ và nhân quyền mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu và để lại cho họ. Khi mà ngày nay vấn đề nhân quyền đã mang ý nghĩa toàn cầu và tôn trọng nhân quyền đã trở thành hòn đá thử vàng và là biểu tượng của công lý trong công việc đối nội và đối ngoại của mỗi quốc gia. Chỉ khi công lý được thực thi thì đảng cộng sản mới có thể tồn tại được, còn không thì sẽ tự huỷ diệt chính bản thân họ. Hồ Chí Minh đã có một câu nói khá nổi tiếng đó là: “ Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập chẳng có nghĩa gì”(Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự thật 1984, Tập 4, tr 35)

Những tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiếp thu mà nay đảng cộng sản Việt Nam phải thực thi ngay đó là: Tôn trọng tuyệt đối tất cả các quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam. Từ bỏ chế độ độc đảng cộng sản lãnh đạo, chấp nhận xây dựng chế độ dân chủ đa đảng. Cùng với đại diện của các đảng phái, tổ chức chính trị, đại diện các tôn giáo, các tổ chức chính trị xã hội thành Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp và tiến hành soạn thảo Hiến pháp mới, luật bầu cử mới, tiến hành trưng cầu dân ý và bầu cử tự do, dân chủ có sự giám sát của cộng đồng quốc tế.

Hà nội, ngày 31-1-2007

Tuesday, January 16, 2007

Thư độc giả gửi luật sư Nguyễn Văn Đài

Tại sao tôi tin Chúa Jesus Christ


Tôi đã có thời gian làm việc tại CHDC Đức(cũ) từ tháng 11 năm 1989 đến tháng 10 năm 1990. Tháng 7 năm 1990, khi việc đi lại giữa Đông và Tây Đức trở nên dễ dàng, thì có rất nhiều đoàn giáo sĩ Tin lành của người Việt từ các nước đã tới những thành phố khác nhau của Đông Đức để truyền giáo. Có một nhóm thanh niên Tin lành đã đến chung cư nơi chúng tôi đang sinh sống, hàng ngày họ đi phát những quyển sách nhỏ nói về Chúa Jesus, phòng tôi có 4 anh em cũng nhận được những cuốn sách đó. Nhưng lúc đó chúng tôi chuẩn bị phải trở về Việt Nam vì nhà máy nơi chúng tôi làm việc đã phá sản, do vậy chúng tôi phải vất vả buôn bán để tranh thủ kiếm thêm chút tiền trước khi về nước, nên tôi và các bạn không có thời gian đọc những cuốn sách đó. Một ngày trước khi về Việt Nam, chúng tôi tranh thủ đi mua quà lưu niệm, tôi tìm mãi nhưng không tìm được món quà mà mình ưa thích, cuối cùng tôi nhìn thấy cây thập tự giá, mặc dù lúc đó tôi không hiểu ý nghĩa của nó, nhưng khi nhìn thấy thì tôi cảm thấy rất thích, và tôi đã quyết định mua làm kỷ niệm cho mình. Tôi đeo cây thập tự bằng vàng vào cổ và trở về căn phòng của mình chuẩn bị hành lý cho chuyến trờ về quê hương. Trong khi chuẩn bị hành lý, thì tôi thấy cuốn sách nói về Chúa Jesus, tôi đọc lướt qua và khi đó tôi mới hiểu một chút ý nghĩa của cây thập tự giá, tôi cảm thấy việc tôi chọn món quà kỷ niệm đầy ý nghĩa. Khi trở về đến Việt Nam, tôi vào trường đại học luật, việc học hành đã cuốn hút tâm trí của tôi, nên tôi không còn nghĩ về ý nghĩa của cây thập tự giá đó nữa. Gia đình tôi theo đạo Phật, nên sau khi ra trường, hàng tháng vào ngày 1 và 15 tôi đều đi lễ Chùa Quán Sứ để cầu mong mọi điều tốt đẹp đến với mình. Nhưng suốt nhiều năm tháng tôi chưa bao giờ được cảm thấy bình an trong cuộc sống cũng như trong công việc của mình.
Đầu năm 2000, chị Nguyễn Thị Thuý là quản nhiệm một Hội thánh Ngũ tuần ở thành phố Việt Trì bị công an bắt và toà án thành phố xử sơ thẩm với mức án 1 năm tù vì tội cống người thi hành công vụ. Một nhóm tín đồ người nước ngoài ở Hà Nội khi cầu nguyện, thì họ thấy Chúa nhắc nhở họ phải giúp đỡ cho chị Thuý để thuê luật sư ở phiên toà phúc thẩm. Và họ đã đóng góp để giúp đỡ gia đình chị. Nhưng gia đình chị Thuý đi tìm nhiều nơi mà không thuê được luật sư, một hôm người nhà chị Thuý tìm đến Văn phòng của luật sư Châu ở phố Tràng Thi, chị Châu không nhận vụ này nhưng hứa sẽ tìm giúp luật sư, và chị mở danh sách luật sư học cùng với chị, cuối cùng chị tìm đúng tên của tôi và gọi điện thoại cho tôi, chị nói có một vụ án nhạy cảm, em có thể nhận lời bào chữa không? Tôi nói với chị là cần phải xem hồ sơ trước khi quyết định, chiều đó tôi tới nhà chị, khi đọc hồ sơ chi có 3 trang giấy của bản án sơ thẩm, tôi hết sức bất bình vì chính quyền địa phương đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, quyền tư do tín ngưỡng, tôn giáo và họ còn bắt và xử tù một người đang thực hiện quyền công dân của mình. Tôi nhận lời làm luật sư cho chị. Trong thời gian nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị cho phiê toà phúc thẩm, tôi đã gặp rất nhiều tín đồ Tin lành và nghe họ làm chứng về Chúa Jesus và thập tự giá. Và có một giáo sĩ nước ngoài đã đến thăm tôi tại nhà, ông nói với tôi là không quen biết chị Thuý, nhưng là cùng đức tin, khi nghe chị Thuý bị bắt bớ và tôi đã nhận làm luật sư cho chị thì ông rất mừng và không quản ngại xa xôi, ông đã đến Việt Nam để gặp tôi. Ông nói hàng triệu tín đồ khắp nơi trên thế giới ngày đêm đang cầu nguyền cho chi Thuý và cho tôi. Khi nghe tới đó, tôi rất cảm động và nghi lại câu chuyện 10 năm trước tôi đã chọn mua cây thập tự giá làm quà kỷ niệm cho chính mình. Sau đó ít bữa một người bạn đã mời tôi đến dự lễ truyền giảng tại Nhà thờ Tin lành số 2 Ngõ Trạm, và hôm đó cả hai vợ chồng tôi cùng tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa của chúng tôi.(còn tiếp)

Tính chất pháp lý của chỉ thị 06-CT/TW của bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam

Hà nội, ngày 12-1-2007

Sau ngày 30-4-1975, đảng cộng sản được sự soi dẫn của chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa đất nước của chúng ta đến cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài 10 năm, nhân dân đói khổ lầm than, hàng triệu người phải vượt biển đi tìm tự do và hạnh phúc ở những vùng đất khác nhau trên thế giới. Mấy chục triệu người không đi được phải ở lại để tiếp tục theo sự lãnh đạo của đảng. Năm 1986, đảng cộng sản kiên định lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho việc đổi mới về kinh tế. Hai mươi năm đổi mới kinh tế, nhờ nỗ lực của cả dân tộc Việt Nam cần cù chịu khó, nhờ tư bản nước ngoài mang tiền của vào đầu tư, nhờ đồng bào hải ngoại ngày đêm lao động vất vả để gửi tiền về nên kinh tế có khởi sắc, người dân bớt đói nghèo, nhưng so với những nước trong khu vực thì chúng ta vẫn lạc hậu và bị tụt hậu, có lẽ chẳng bao giờ đuổi kịp được họ. Quan chức cộng sản đã hình thành nên một giai tầng mới trong xã hội, phần lớn trong số họ không còn xuất thân từ tầng lớp công nhân, nông dân nữa, mà họ xuất thân từ tầng con cháu của những những người cộng sản thế hệ trước. Họ vẫn tiếp học tập, nghiên cứu và áp dụng chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng họ càng học tập, càng kêu gào sống và học tập theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thì lối sống đạo đức của họ càng tha hoá, tệ nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn, quan chức cộng sản tham nhũng đã trở thành giặc nội xâm và là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam. Giờ đây không biết được mấy phần trăm quan chức cộng sản dám hiên ngang tuyên bố rằng họ không tham nhũng tài sản của nhân dân? ai trong số họ dám công khai tài sản cho nhân dân giám sát? Khi mà lòng tin của nhân dân vào chính quyền cộng sản ngày càng giảm sút nghiêm trọng, trước nguy cơ bị nhân dân phế truất quyền lãnh đạo. Bộ chính trị đảng cộng sản đã vội vã ra chỉ thị số 06-CT/TW “yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chúng ta cùng xem xét tính chất pháp lý của chỉ thị này:

Trong hiến pháp và cả hệ thống pháp luật của Việt Nam không có văn bản pháp luật nào qui định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan có tên là “bộ chính trị”. Tại Điều 1 Luật ban hành các văn bản qui phạm pháp luật năm 1996 qui định về hệ thống văn bản qui phạm pháp luật và các cơ quan được phép ban hành văn bản qui phạm pháp luật, các văn bản của bộ chính trị - đảng cộng sản không được qui định tại Điều này. Như vậy các văn bản do bộ chính trị của đảng cộng sản ban hành là không có cơ sở pháp lý. Duy nhất tại Điều 4 Hiến pháp 1992 có nói đến đảng cộng sản, nhưng trong Điều 4 chỉ qui định đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chứ không qui định cả dân tộc Việt Nam phải theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời trong Điều 4 còn qui định mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

Điều 79 Hiến pháp qui định: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo hiến pháp, pháp luật…” Do đó công dân Việt Nam chỉ có nghĩa vụ tuân theo hiến pháp và pháp luật, chứ không có nghĩa vụ tuân theo chỉ thị của các tổ chức, đảng phái chính trị.

Việc bộ chính trị đảng cộng sản ra chỉ thị 06-CT/TW để bắt buộc mọi người dân phải tuân theo là vi hiến. Chỉ thị 06-CT/TW chỉ có giá trị trong nội bộ của đảng cộng sản, không có giá trị pháp lý để áp dụng bắt toàn dân Việt Nam phải tuân theo.

Nguyễn Văn Đài, luật sư từ Hà Nội.

Quan điểm về CPC

Sau nhiều năm chính phủ cộng sản Việt Nam đàn áp tôn giáo một cách khốc liệt, đặc biệt đối với những người theo đạo Tin lành là người sắc tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây nguyên, các giáo hội Tin lành tư gia tại các thành phố và các tỉnh đồng bằng. Thậm chí chính phủ đã ra những văn bản mật để hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương phải tìm cách xoá bỏ đạo Tin lành(Chỉ thị 184). Tháng 9-2004, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam và danh sách các nước được quan tâm đặc biệt do đàn áp tôn giáo(CPC). Trong suốt hai năm qua, chính phủ Hoa Kỳ đã nỗ lực để đàm phán với cộng sản Việt Nam về tự do tôn giáo, trong khi đó những người theo đạo Tin lành là người H’Mông ở các tỉnh miền núi phía bắc vẫn bị đàn áp, ép bỏ đạo, thậm trí máu của họ vẫn còn rơi, thương tật vì bị đánh đập vẫn mang trên mình. Tháng 6 và tháng 7 năm 2006, máu của nhiều tín đồ Tin lành thuộc hệ phái Phúc âm toàn vẹn tại tỉnh Thanh Hoá vẫn còn rơi vì niềm tin của họ. Hầu hết các tín đồ thuộc các hệ phái tin lành tư gia ở các tỉnh phía Bắc đều gặp rất nhiều khó khăn khi họ xin xác nhận của chính quyền địa phương vào lý lịch để đi xin việc, xin cấp chứng minh thư, xin cấp hộ chiếu, nhiều nơi chính quyền từ chối không cấp vì lý do theo đạo.

Cho đến thời điểm gần diễn ra hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội, các tín đồ người H’Mông mới thực sự không bị đàn áp, nhưng còn một số Hội thánh Tin lành tư gia tại Thanh Hoá vẫn gặp khó khăn và cản trở của chính quyền trong việc họ nhóm lại.

Hiện tại có khoảng hơn 4000 Hội thánh Tin lành tư gia thuộc hơn 50 hệ phái khác nhau, nhưng chính phủ cộng sản Việt Nam mới chỉ công nhận đăng ký chưa tới 10 Hội thánh. Và có trên 400 Hội thánh Tin lành của người H’Mông tham gia đăng ký, nhưng chính quyền mới công nhận được khoảng 30 Hội thánh.

Mặc dù chính phủ cộng sản Việt Nam đã có những tiến bộ khi giảm thiểu việc đàn áp, và sách nhiễu các giáo hội Tin lành tư gia, nhưng điều đó chưa đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của những người theo đạo. Sự tiến bộ đó không phải đến từ cái gọi là: “bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN” và thực tâm của chính phủ cộng sản Việt Nam. Cộng sản Việt Nam nới lỏng việc kiểm soát tôn giáo do áp lực ngoại giao của Hoa Kỳ nhằm được Bộ ngoại giao Hoa Kỳ rút ra khỏi danh sách CPC, và được Quốc hội Hoa Kỳ bỏ phiếu thông qua PNTR cho Việt Nam.

Ngày 13-11-2006, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, đây là thành công của cộng sản Việt Nam và những nỗ lực ngoại giao của chính phủ Hoa Kỳ. Cộng sản Việt Nam chưa thể đáp ứng các tiêu chuẩn về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ cũng như chuẩn mực quốc tế, việc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC mang tính chất miễn cưỡng, và chiếu cố cho cộng sản Việt Nam, một món quả nhỏ mà bà Ngoại trưởng cũng như Tổng thống Hoa Kỳ muốn tặng cho cộng sản Việt Nam trong chuyến thăm chính thức Việt Nam cũng như tham dự hội nghị APEC diễn ra tại Hà Nội.

Một câu hỏi lớn đặt ra là: “Sau khi cộng sản Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC, đạt được PNTR, trở thành thành viên chính của WTO, chính sách đối với tôn giáo nói chung và các giáo hội Tin lành nói riêng sẽ như thế nào?” trong khi mà đường lối chính sách tuyên truyền của cộng sản Việt Nam vẫn coi đạo Tin lành là của Mỹ, là đạo phản động, và việc phát triển đạo Tin lành nằm trong chiến lược được cộng sản gọi là: “Diễn biến hoà bình nhằm thay đổi chế độ cộng sản” do “các thế lực thù địch” đang thực hiện. Cộng sản Việt Nam mong muốn dựa vào Hoa Kỳ để làm ăn kinh tế, nhằm duy trì quyền lực lãnh đạo của mình, nhưng mặt khác cộng sản Việt Nam vẫn coi Hoa Kỳ là mối đe doạ trực tiếp cho quyền lực của họ khi mà chính phủ Hoa Kỳ luôn luôn có những đòi hỏi về dân chủ, nhân quyền với cộng sản Việt Nam. Cộng sản Việt Nam và chính phủ Hoa Kỳ vẫn còn nhiều vấn đề cần phải đàm phán và giải quyết về tự do tôn giáo nói riêng và dân chủ, nhân quyền nói chung. Nhưng điều mà tất cả mọi người mong muốn lại là việc cộng sản Việt Nam phải thực tâm nhìn nhận vấn đề tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền là đòi hỏi thực sự của toàn thể nhân dân Việt Nam, mà họ phải tôn trọng và đáp ứng chứ không phải là việc họ đi đàm phán với Hoa Kỳ để mang tự do, dân chủ và nhân quyền về cho nhân dân Việt Nam.

Nguyễn Văn Đài, luật sư

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2006.

Dân trí và chế độ dân chủ ở Việt Nam

Hà nội, ngày 1-6-2006

Trong bài viết trước của tôi về công dân Việt Nam có quyền tự do thành lập đảng, đã nhận được những ý kiến đóng góp tích cực từ nhiều phía, và trong đó chủ yếu là những ý kiến ủng hộ đa đảng hay phản đối việc đa đảng.

Những ý kiến phản đối việc đa đảng thì cho rằng do trình độ dân trí còn thấp, người dân chưa đủ khả năng và hiểu biết về một xã hội dân chủ nên việc đa đảng sẽ gây ra nhiều bất ổn trong xã hội.

Trong bài viết này tôi sẽ đưa ra những minh chứng cho việc người dân Việt Nam hoàn toàn có đủ tri thức và khả năng để tiếp thu và xây dựng một Nhà nước dân chủ, đa đảng.

Trước hết, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử của dân tộc về những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20. Lúc đó dưới sự áp bức, cai trị của chủ nghĩa thực dân, nhu cầu đánh đuổi thực dân, giải phóng dân tộc để dành độc lập đã lan rộng trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức.

Truyền thống đa dạng

Những phong trào yêu nước của cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh tuy không giành được thắng lợi cuối cùng, nhưng nó là một tác nhân cho phong trào thành lập các chính đảng sau này.

Năm 1930 đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập tại Trung Quốc, cuối thập niên 30 và sang đầu thập niên 40, một loạt các chính đảng được thành lập ở Việt Nam như: Quốc Dân Đảng, Đại Việt, đảng Dân Chủ, đảng Xã Hội, … Tất cả chúng ta ai cũng biết là lúc đó cuộc sống người dân Việt Nam nghèo nàn và lạc hậu, trên 80% dân số mù chữ và cả dân tộc đang bị cai trị một cách hà khắc của chủ nghĩa thực dân. Nhưng với tấm lòng yêu nước, tinh thần giải phóng dân tộc, một loạt các đảng phái chính trị đã ra đời để đấu tranh cho mục tiêu dành độc lập dân tộc.

Và đến năm 1945, Chính phủ và Quốc hội đa đảng đã được thành lập ở Việt Nam. Ở miền Bắc sau năm 1954 và trên cả nước sau năm 1975 cho đến năm 1988, tuy vẫn còn giữ cơ chế Chính phủ và Quốc hội đa đảng, nhưng việc cạnh tranh dân chủ giữa các đảng đã không còn nữa. Tuy nhiên, ở miền Nam việc bầu cử tự do và cạnh tranh dân chủ giữa các đảng phái vào Chính phủ và Quốc hội vẫn được duy trì cho đến trước 30-4-1975.

Chúng ta có thể thấy rằng trong thế kỷ trước người dân Việt Nam đã từng làm quen và xây dựng chế độ dân chủ đa đảng, mặc dù lúc đó dân trí thấp, lạc hậu, mù chữ, thông tin bị giới hạn.

Sau 30-4-1975, khoảng 2 triệu người Việt Nam đã di cư đến các quốc gia phát triển, với thể chế chính trị dân chủ, đa đảng. Nhưng chỉ sau một thời gian rất ngắn, cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã hòa nhập rất nhanh vào nền văn hóa, kinh tế và chính trị của nước sở tại. Đại đa số đã thành đạt về kinh tế, và nhiều người đã thành đạt về chính trị, nắm giữ những vị trí quan trọng trong chính quyền.

Trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước, có hàng trăm nghìn lao động và sinh viên Việt Nam làm việc và học tập ở Liên Xô cũ và các nước Cộng sản đông Âu. Sau khi những nước trên chuyển sang chế độ dân chủ, đa đảng, thì cộng đồng người Việt ở đó cũng đã hòa nhập nhanh chóng vào nền chính trị dân chủ mà họ không hề bỡ ngỡ hay gặp khó khăn gì. Và hiện nay đang có hàng trăm nghìn lao động Việt Nam đang sống và làm việc rất bình thường ở những nước dân chủ, đa đảng như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Đài Loan.

Qua những minh chứng ở trên, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng nhân dân Việt Nam có đủ tri thức, kinh nghiệm, khả năng và tinh thần yêu nước để xây dựng một chế độ dân chủ, đa đảng.

Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc chiến chống lại sự nghèo nàn, lạc hậu, nạn tham nhũng và sự thoái về đạo đức đang quyết định đến vận mệnh của cả dân tộc, hoặc là chúng ta sẽ vươn lên để đuổi kịp các nước phát triển, hoặc là chúng ta sẽ mãi mãi tụt hậu, và làm thuê cho họ.

Khi đảng Cộng sản đã tỏ ra bất lực và không có khả năng trong cuộc chiến đó thì sự ra đời của các đảng phái chính trị sẽ phát huy sức mạnh của cả dân tộc để xây dựng một Nhà nước dân chủ, từ đó sẽ là tiền đề cho đất nước Việt Nam phát triển và cất cánh đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/05/060523_dantri_danchu.shtml

Trả lời phỏng vấn đài Tiếng nước tôi

Anh Hoàng Hà: Kính thưa Luật sư, như chúng tôi vừa giới thiệu , chúng ta đang ở những ngày đầu của năm mới dương lịch 2007. Trong năm 2006 vừa qua có khá nhiều biến cố đáng chú ý đối với cả đảng cộng sản Việt Nam lẫn các lực lượng đấu tranh cho dân chủ. Trong buổi hội luận này, với tư cách là một nhà trí thức đấu tranh, xin mời luật sư cho thính giả biết những nhận định của luật sư về các biến cố đáng chú ý. Trước hết là về phía đảng cộng sản Việt Nam. Năm 2006 vừa qua là năm đánh dấu 20 năm chính sách đổi mới. Đương nhiên là đảng cộng sản Việt Nam đã có những tổng kết đầy mầu hồng cho thành tích 20 năm đổi mới của họ, vì ngay cả tổng kết 10 năm thực hiện khẩu hiệu "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa" chấm dứt vào năm 1986 thê thảm như vậy, mà cũng đã trưng ra đầy dẫy những thành tích. Thưa luật sư câu hỏi đặt ra là, sau 20 năm đồi mới đảng cộng sản có thực sự thành công trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa mà họ vẫn hô hào và theo đuổi đến nay hay không? Trước hết là về mặt ý thức hệ và tư tưởng , vì đây là 2 lãnh vực vẫn được đảng cộng sản coi là chỉ đạo cho các hành động khác.

Luật sư Nguyễn Văn Đài:

Thưa quí thính giả, theo đánh giá của cá nhân tôi thì sau hai mươi năm đổi mới về kinh tế thì nền kinh tế Việt Nam ngày càng xa rời con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và thực tế là nền kinh tế Việt Nam ngày càng tiến gần, tiến nhanh và tiến vững chắc theo chủ nghĩa tư bản, đặc biệt sẽ nhanh hơn sau khi Việt Nam trở thành viên chính thức của WTO. Hiện nay tỷ trọng về kinh tế ngày càng nghiêng về các nhà tư bản trong nước và các nhà tư bản ngoại quốc đầu tư vào Việt Nam. Theo nhận định của tôi thì trong vòng từ 5 tới 7 năm nữa tư bản trong nước và tư bản ngoại quốc sẽ chiếm tỷ trọng áp đảo trong nền kinh tế Việt Nam.

Còn về mặt ý thức hệ và tư tưởng của những người cộng sản, tôi cho rằng bản chất trong con người cộng sản đã thay đổi, ngày nay ý thức hệ và tư tưởng cộng sản chỉ còn trong các viện nghiên cứu, trong các cuộc họp chi bộ, mỗi kỳ đại hội đảng. Trong đối nội họ mang ý thức hệ và tư tưởng cộng sản ra để buộc học sinh, sinh viên phải học, nhằm thống trị về tư tưởng, kéo dài sự cai trị độc đảng của họ, nhưng cuộc cách mạng về công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão, xoá đi khoảng cách giữa các quốc gia, tầng lớp học sinh, sinh viên và trí thức có điều kiện để tiếp cận với thông tin từ thế giới bên ngoài, cho nên việc áp đạt ý thức hệ và tư tưởng cộng sản không còn ý nghĩa như trước đây, và nay nó đã mất tác dụng. Mặt khác họ dùng chiêu bài xây dựng CNXH để loè bịp nhân dân. Trong quan hệ đối ngoại có hai loại: Thứ nhất bất kỳ quốc gia nào mà ủng hộ sự cai trị độc đảng của họ thì là bạn; Thứ hai những quốc gia nào ủng hộ họ trong chuyện buôn bán làm ăn kinh tế thì là đối tác. Cộng sản Việt nam không còn đặt vấn đề ý thức hệ và tư tưởng cộng sản trong quan hệ đối ngoại. Những người gia nhập vào đảng cộng sản ngày nay phần lớn là mang tính cơ hội, họ mong muốn có được địa vị, để được thăng quan tiến chức, làm giàu qua việc mua bán chức quyền, tham nhũng. Tôi đã hỏi nhiều đảng viên trẻ tuổi về lý tưởng cộng sản của họ là gì? họ không trả lời được. Như vậy cả về kinh tế và ý thức hệ thì cộng sản Việt Nam ngày càng thất bại.

Anh Hoàng Hà:

Về mặt kinh tế, không ai phủ nhận được là sau 20 năm đổi mới, sau khi chính sách ngăn sông cấm chợ, một chính sách đặc trưng của xã hội chủ nghĩa bị bãi bỏ, người dân có cơ hội để làm ăn kiếm sống thoải mái hơn, thì bộ mặt xã hội VN đã có nhiêu thay đổi. Nhưng theo LS thì những thay đổi đó thực sự mang ý nghĩa gì, khi mà trước năm 1975, những nước trong vùng cũng chỉ có trình độ phát tiển tương đương, hoặc hơn kém chút ít so với với miền nam VN. Nay họ bỏ xa ta hàng chục năm. Đặc biệt là Singgapore, vào thập niện 60, họ chưa hình thành là 1 quốc gia, đất đai thì còn là vùng hoang giả, mà nay ta phải mất 197 năm mới theo kịp họ của ngày hôm nay . Như vậy, ý nghĩa thực sự của 20 năm đổi mới là gì khi mà dân tộc càng ngày càng bị tụt hậu?

Luật sư Đài: So với nền kinh tế Việt Nam của thời điểm năm 1986 và sau 20 năm thì nền kinh tế của Việt Nam có phát triển, nhưng so với những nền kinh tế trong khu vực có cùng xuất phát điểm cộng nguồn lực về con người và tài nguyên thiên nhiên thì nền kinh tế Việt Nam bị tụt hậu nghiêm trọng. Ý nghĩa thực sự của 20 năm đổi mới là làm cho những người cộng sản có chức quyền, con cháu và người thân của họ ngày càng giàu có, trở thành những ông chủ, còn người dân Việt Nam, đất nước, dân tộc ngày càng tụt hậu, tài nguyên thiên nhiên bị huỷ hoại, ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, đạo đức xã hội bị suy thoái, các thế con cháu tương lai của nước Việt ngày càng suy yếu do môi trường, lương thực, thực phẩm, rau quả bị ô nhiễm và không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh.

Anh Hoàng Hà: Vẫn về vấn đề đổi mới, đảng cộng sản luôn luôn tự hào là đã có công phát khởi và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới. Thế nhưng trước khi đổi mới 20 năm, tức là năm 1966, ở Thái Bình người dân đã tự động đổi mới, đem lại những thành quả lạc quan, thì cuộc đổi mới đó đã bị đảng nghiền nát, và sau này ở miền Nam, những hiện tượng làm ăn xé rào của ngưòi dân miền Nam , vốn đã quen với nền kinh tế thị trường trước năm 1975, cũng đã bị đảng trù dập nặng tay.Như vậy, theo LS thì đảng cộng sản VN có thực sự là người khởi phát và lãnh đạo công cuộc đổi mới hay không?

Trong suốt chiều dài lịch sử Việt nam, dân tộc Việt Nam luôn cần cù chịu khó, đồng thời cũng rất năng động sáng tạo trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhưng chỉ vì sự cai trị sai lầm của chế độ đương thời vào lúc đó mà đất nước và dân tộc chúng luôn luôn tụt hậu và phải đuổi theo các nước khác. Vào thời điểm năm 1986, sau 10 năm khủng hoảng kinh tế trầm trọng, nếu không từ bỏ kiểu kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, chắc chắn nền kinh tế Việt Nam sẽ sụp đổ, chế độ cộng sản cũng khó mà tồn tại được. Do vậy việc đổi mới nền kinh tế vào năm 1986 là đòi hỏi của thực tiễn lúc bấy giờ, và cũng là đòi của nhân dân Việt Nam buộc đảng cộng sản phải có nghĩa vụ chấp hành. Đáng lẽ ra đảng cộng sản phải cảm ơn nhân dân Việt nam thì mới đúng, không có dân tộc nào trên thế giới có thể chấp nhận sự lãnh đạo sai lầm của một chính đảng trong nhiều thập kỷ như vậy.

Còn những thành tựu kinh tế đạt được phải do nỗ lực chung của cả dân tộc, nếu đất nước Việt Nam có dân chủ thực sự cùng với sự đổi mới về kinh tế thì chắc chắn nền kinh tế Việt nam đã vượt xa hơn ngày hôm nay rất nhiều.

Tại sao đảng cộng sản không đặt câu hỏi là nếu không có họ cùng với sự sai lầm của họ trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế của Việt Nam thì đất nước, dân tộc Việt nam sẽ ra sao? Nhiều người có cùng quan điểm với tôi là không có họ thì Việt Nam đã có thể trở thành cường quốc của châu Á, và trên thế giới rồi.

Anh Hoàng Hà: Sau 20 năm đổi mới, đảng cộng sản VN đã có đại hội 10 vào tháng tư năm 2006 với thành phần nhân sự trẻ trung hơn. Xin LS cho thính giả biết nhận định của LS về thành phần lãnh đạo mới này và những chính sách của họ. Đây là nhận định quan trọng, vì thành phần lãnh đạo và chính sách này sẽ có ảnh hưởng toàn bộ trên các vấn đề của đất nước trong những năm trước mặt.

Luật sư Đài: Những người lãnh đạo được coi là trẻ hiện nay của chính phủ cộng sản Việt Nam thì họ đã từng làm cấp phó, hoặc gắn bó với thế hệ lãnh đạo trước trong rất nhiều năm, có người đến 10 năm, nhưng nếu xem những thành tích của họ trong quá khứ thì không có gì nổi trội, nếu không muốn nói là có nhiều sai lầm và thất bại. Cộng sản Việt nam thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tập thể và cùng chịu trách nhiệm, cho nên một vài các nhân dù có xuất sắc thì cũng không thể vượt qua được thể chế do họ tạo ra. Vấn đề mấu chốt là phải thay đổi hệ thống chính trị hiện nay, chấp nhận có đa nguyên, đa đảng có sự cạnh tranh lành mạnh trong sinh hoạt chính trị thì lúc đó mới nói đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế cũng như sự ổn định chính trị.

Anh Hoàng Hà: Bây giờ sang đến các lực lượng đấu tranh cho dân chủ. Thưa LS, năm 2006 cũng là năm có những chuyển biến vô cùng to lớn của phòng trào đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam mà trong 50 năm trước đó, hay ngay cả trong những năm đầu của thế kỷ 21 không ai có thể nghĩ là nó có thể xẩy ra. Xin LS cho thính giả của đài biết nhận định của LS về những thành tựu, khó khăn của phong trào đầu tranh cho dân chủ, đặc biệt là sự ra đời của những thực thể đấu tranh như khối 8406, các tờ báo độc lập như tờ tự do ngôn luận, tự do dân chủ, Tổ Quốc và sau đó là sự hình thành của Liên Minh Dân chủ Nhân QuyềnVN và các đảng phái chính trị như đảng Thăn TiếnVN, các tổ chức độc lập như công đoàn, v.v.v.....

Luật sư Đài: Trong năm 2006 là thời khắc lịch sử vàng son cho sự ra đời của các tổ chức, đảng phái chính trị, tổ chức bảo vệ nhân quyền và những tờ báo độc lập ở trong nước. Mặc dù dưới sự cai trị hà khắc của đảng cộng sản, nhưng những người đấu tranh DC trong nước đã bất chấp những nguy hiểm về sinh mạng chính trị của mình và gia đình để thành lập lên các tổ chức chính trị dân chủ và báo chí độc lập. Đó là những thành tựu vượt bực trong suốt hơn 30 năm dưới sự cai trị của đảng cộng sản trên cả nước Việt Nam mà phong trào DC chưa bao giờ có được. Nhưng những khăn trước mắt còn nhiều, do đảng cộng sản ko chịu ngồi yên cho PTDC hoạt động và phát triển, họ đã và đang ra sức chống phá, gây khó khăn cho những người đấu tranh DC và người thân của họ. Nhưng với lương tâm, trách nhiệm với tổ quốc và dân tộc, cộng với sự can đảm và sẵn sàng hy sinh những quyền lợi cá nhân của mình, những người đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền hoàn toàn tin tưởng vào con đường chính nghĩa mà mình đã lựa chọn. Chắc chắn toàn thể đồng bào Viêt Nam ở trong nước và hải ngoại sẽ ủng hộ, dân chủ hoá Việt Nam sẽ thành công.

Anh Hoàng Hà: Xin LS cho các nhận định của mình lần lượt theo thứ tự thời gian về sự ra đời của các thực thể đấu tranh vừa kể. trước hết là khối 8406.

- Các tờ báo độc lập;

- Sự xuất hiện của các đảng phái chính trị (như đảng Thăng Tiến Việt Nam;

- Liên Minh dân chủ và nhân quyền VN; …

Luật sư Đài: Trước đòi hỏi phải tập hợp những người đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền trong nước, ngày 8-4-2006 Tuyên TDDC cho VN được công bố trước nhân dân Việt Nam và thế giới, từ đó Khối 8406 được hình thành. Để đáp ứng nhu cầu về đấu tranh tư tưởng và cung cấp thông tin chính xác, trung thực cho người dân trong và ngoài nước, do vậy báo Tự do ngôn luận được phát hành mà không cần sự cấp phép của chính quyền cộng sản. Đấu tranh chính trị thì phải có tổ chức, đảng phái chính trị, trước đòi hỏi của thực tiễn, ngày 1-6-2006 đảng Dân chủ VN phục hồi hoạt động và đổi tên thành đảng Dân chủ XXI. Đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng tăng của nhân dân, đặc biệt tại thủ đô Hà Nội, ngày 2-9 Tập san Tự do DC ra mắt bạn đọc trong và ngoài nước, tiếp đó ngày 8-9-2006 đảng Thăng Tiến công khai hoạt động, ngày 16-9-2006 Liên minh DCNQ VN ra đời tập hợp các tổ chức, đảng phái dân chủ phi công sản lại để tăng cường sự đoàn kết và sức mạnh đấu tranh cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Để bảo vệ quyền lợi của tầng công nhân và người lao động VN, ngày 20 tháng 10 Công đoàn độc lập ra đời và ngày 10-11-2006, Hội đoàn kết công Nông ra đời. Kết thúc năm 2006 là sự ra đời của Ủy ban NQVN vào ngày 10-12-2006. Sự ra đời của các tổ chức, đảng phái chính trị, các tổ chức bảo vệ nhân quyền trong năm 2006 là sự đòi hỏi của thực tiễn cách mạng dân chủ Việt Nam, điều này đáp ứng lòng mong đợi của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân trong nước, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đồng thời cũng đã nhận được sự ủng hộ to lớn của cộng đồng quốc tế, chính phủ các nước và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Những sự kiện đó là không thể đảo ngược, không có một bộ máy cường quyền nào có thể ngăn cản và dập tắt được.

Anh Hoàng Hà: Về phía đấu tranh có một sự kiện đáng chú ý nữa là trong năm vừa qua, hoà Thượng Thích Quảng Độ đã được trao giải nhân quyền Rafto, đây là ngưỡng cửa để đi đến giải Nbel hoà bình. LS nhận định thế nào về sự kiện này

Luật sư Đài: Đây là 1 sự kiện quan trọng cho phong trào dân chủ VN, nó cho thấy sự quan tâm, chú ý và ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với phong trào DCVN. Trong lúc PTDCVN còn non trẻ và yếu thì sự quan tâm, giúp đỡ và ủng hộ của cộng đồng quốc tế có ý nghĩa quan trọng thậm chí quyết định đến sự tồn tại và phát triển của phong trào. Việc HT Thích Quảng Độ được tặng giải thưởng Rafto đó là niềm vinh dự HT nói riêng và cả phong trào DCVN nói chung. Năm 2007, mà HT Thích Quảng Độ được giải thưởng Nobel thì đó là sự kiện trọng đại cho cá nhân Hoà Thượng Thích Quảng Độ và cả phong trào DCVN. Điều đó là nguồn cổ vũ lớn lao cho tất cả mọi người đang đấu tranh và cả những người còn đang lưỡng lự chưa gia nhập vào phong trào.

Anh Hoàng Hà: Chúng tôi vừa nhận được thư của Khối 8406 Thư Khối 8406 cảm ơn

Các Tổ chức, Cá nhân Quốc nội & Hải ngoại & Đẩy mạnh hơn Cao trào Tẩy chay Bầu cử độc đảng 2007. Là một thành viên của Khối 8406 và Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam, xin luật sư trình bày quan điểm của mình liên quan đến vấn đề này

Luật sư Đài: Việc kêu gọi tẩy chay bầu cử QH độc đảng đã có từ ngay sau khi Khối 8406 được hình thành, và gần đây thì Khối 8406 kêu gọi mạnh mẽ hơn cả trong quốc nội và hải ngoại. Trong khi đó có rất nhiều nhóm hoạt động dân chủ khác thì đang vận động để có nhiều người không phải cộng sản ra ứng cử. Việc ra ứng cử thì rễ, nhưng trúng cử thì là điều không thể, chính quyền cộng sản sẽ sử dụng nhiều biện pháp để loại các ứng cử viên độc lập vì tôi cũng đã từng tự ứng cử năm 1997 và đã bị loại từ vòng đầu tiên. Nhưng quan điểm của cá nhân tôi là nên ra ứng cử xem chính quyền cộng sản sẽ sử dụng thủ đoạn nào để loại các ứng cử viên độc lập, rồi sau đó sẽ tẩy chay hoặc tố cáo họ gian lận bầu cử như vậy cộng đồng quốc tế sẽ ủng hộ mạnh mẽ hơn.

Anh Hoàng Hà: Là một người từng bị ngăn cản không cho đi ra ngoại quốc, LS có nhận định thế nào về việc Giáo sư Nguyễn Chính Kết xuất ngoại vừa qua ?

Luật sư Đài: Giáo sư Nguyễn Chính Kết cũng đã tham khảo ý kiến của tôi trước khi xuất cảnh, còn việc thực hiện như thế nào hoàn toàn do giáo sư Kết quyết định. Trong hoàn cảnh hiện nay thì không thể có bất cứ một người đấu tranh DC nào có thể xuất cảnh ra nước ngoài được nữa, đặc biệt là sau sự việc của giáo sư Kết. Do vậy việc giáo sư Nguyễn Chính Kết đại diện cho LMDCNQ VN ra nước ngoài để vận động đồng bào hải ngoại, chính phủ các nước và tổ chức quốc tế ủng hộ cho Liên Minh là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa, cá nhân tôi ủng hộ việc làm của giáo sư Nguyễn Chính Kết.

Anh Hoàng Hà: Sau những nhận định về cả hai phía : đảng cộng sản VN và phong trào đầu tranh cho dân chủ tại VN mà LS vừa đưa ra, xin LS cho thính giả của đài biết nhãn quan của LS đối với tình hình đất nước trong năm 2007 ra sao.

Luật sư Đài: Trong năm 2007, các tổ chức, đảng phái chính trị, tổ chức bảo vệ nhân quyền ở trong nước sẽ phải di vào hoạt động thực chất trong việc xây dựng tổ chức, phát triển phong trào. Có rất nhiều tín hiệu khả quan cho sự phát triển của phong trào, chúng tôi có những kênh thăm dò dư luận xã hội khác nhau, và kết quả cho thấy sự ủng hộ của mọi từng lớp nhân dân với tiến trình dân chủ hoá đất nước là rất tích cực, ngày càng có nhiều bạn trẻ liên hệ với chúng tôi và gia nhập phong trào, trong đó có nhiều người đang làm việc trong chính quyền và bộ máy của đảng cộng sản. Chúng tôi hết sức lạc quan và tin tưởng vào sự phát triển của phong trào DC trong năm 2007.

Anh Hoàng Hà: Và sau cùng mời LS có một kết cho buổi thảo luận hôm nay trước khi chúng ta chào tạm biệt quý thính giả của đài

Luật sư Đài: Tôi chân thành cảm ơn anh Hoàng Hà và đài Tiếng nước tôi đã cho tôi cơ hội được tham gia chương trình ngày hôm nay, cảm ơn quí thính giả đã theo dõi câu chuyện của chúng tôi. Nhân dịp năm mới 2007 và Xuân Đinh Hợi đang đến gần, tôi xin kính chúc quí vị thính giả trong nước và đồng bào hải ngoại một năm mới sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt. Chúng tôi luôn mong muốn nhận được sự ủng hộ của đồng bào hải ngoại trong công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền tại VN. Xin tạm biệt và gặp quí thính giả vào một dịp khác.

Trả lời phỏng vấn Đối Thoại về giáo dục Việt Nam

Kính thưa quý thính giả, tình trạng giáo dục tại Việt Nam có gì đổi mới sau khi tân Bộ trưởng Giáo dục là ông Nguyễn Thiện Nhân lên nắm chức vụ này từ Đại hội 10 của đảng CSVN?

Xin mời quý thính giả và độc giả của Đối Thoại Online theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi với luật sư Nguyễn Văn Đài hiện thường trú tại Hà Nội. Ông là một luật sư chuyên trách về nhân quyền và các vụ kiện oan sai của nhân dân và là thành viên của Khối 8406 đồng thời là biên tập viên của Tập san Tự Do Dân Chủ. Và hơn tất cả, luật sư Nguyễn Văn Đài là một người đấu tranh cho dân chủ Việt Nam không ngừng nghỉ.

Duy Khang: Xin kính chào luật sư. Trong tập san Dân Chủ số 2, một phụ huynh học sinh đã đặt vấn đề hiện nay đảng CSVN đã từ bỏ tôn vinh tư tưởng Mác – Lê là đỉnh cao trí tuệ của loài người, cho nên phụ huynh yêu cầu Bộ giáo dục ngoài hệ tư tưởng Mác – Lê cho con em họ học những tư tưởng khác để bắt kịp thời đại.

Thưa luật sự, tình trạng giáo dục về hệ tư tưởng CS có gì thay đổi hay có triển vọng gì thay đổi trong tương lai gần ạ?

Ls Nguyễn Văn Đài: Thưa anh Duy Khang cũng như quý thính giả, theo tôi được biết thì trong dư luận xã hội thì đã có rất nhiều bậc phụ huynh, sinh viên, các nhà khoa học giáo dục đặc biệt là những người đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam đang đòi hỏi là phải loại bỏ chương trình giáo dục về hệ tư tưởng Mác-Lê Nin ra khỏi các trường học phổ thông cũng như bậc đại học ở Việt Nam.

Đấy là đòi hỏi thứ nhất. Thứ hai là giảm bớt thời gian học về tư tưởng Mác-Lê đồng thời đưa các hệ tư tưởng khác vào giảng dạy trong trường một cách bình đẳng như hệ tư tưởng Mác-Lê Nin để cho học sinh, sinh viên có sự tự do lựa chọn. Nhưng trên thực tiễn thì sinh viên vẫn phải học rất nhiều về những môn như kinh tế chính trị Mác-Lê Nin, triết học Mác-Lê Nin, chủ nghĩa cộng sản khoa học, chủ nghĩa xã hội khoa học. Đối với các sinh viên trường khoa học tự nhiên thường họ phải mất năm đầu tiên, còn các trường đại học xã hội thì họ học mất hai năm. Như vậy là họ mất rất nhiều thời gian để học những môn – theo quan điểm của tôi đó rất là vô bổ.

Đồng thời sau khi 4 hoặc 5 năm học, trước khi ra trường thì sinh viên đều phải thi tốt nghiệp một trong những môn như chủ nghĩa cộng sản khoa học, chủ nghĩa xã hội khoa học hay tư tưởng HCM. Đặc biệt là trước khi họ nhận bằng tốt nghiệp thì họ phải học thêm 3 ngày nữa về chính trị, tức là về tư tưởng HCM nếu họ muốn lấy được bằng.

Trong giai đoạn khi công cuộc đấu tranh và vận động cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam đang lên rất cao, đồng thời sự hoạt động tích cực của những người đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền cho đất nước, thì những người cộng sản rất lo sợ. Bởi vì sinh viên Việt Nam thì họ rất nhạy bén đối với những tình hình mới cho nên họ buộc phải dùng hệ tư tưởng cũ, lạc hậu để thống trị những tư tưởng của người dân.

Theo tôi thì trong những năm tới đây thì cũng chưa có sự thay đổi nào đáng kể trong việc giảng dạy cũng như học tập hệ tư tưởng Mác – Lê Nin ở trong các trường phổ thông cũng như các trường đại học ở Việt Nam .

Duy Khang: Hiện nay văn bằng tiến sĩ ở Việt Nam có quá nhiều, khoảng từ 15,000 đến 20,000 và dư luận cho rằng có rất nhiều “văn bằng thiệt nhưng học giả”. Theo luật sư thì dư luận đó có đúng hay không? Và nếu cần một giải pháp để rà soát lại thì giải pháp nào tốt nhất, thưa luật sư?

Ls Nguyễn Văn Đài: Dư luận về chuyện các bằng cấp bậc tiến sĩ ở Việt Nam về bằng thật nhưng kiến thức giả thì nó đã có từ rất lâu rồi, từ khi những năm vào thập kỷ 80 khi phần lớn các bằng tiến sĩ Việt Nam đều được làm ở các nước Liên Xô hoặc các nước XHCN Đông Âu cũ thì khi đó tôi đã nghe dư luận nói về chuyện này. Bởi vì phần lớn những nghiên cứu sinh Việt Nam sang đó, học thì ít nhưng họ đi buôn bán, làm ăn thì nhiều. Họ dùng tiền để mua những bằng đó. Dư luận này thì có từ rất lâu rồi.

Còn làm sao để biết trong thời gian gần đây khi trong nước bắt đầu triển khai đào tạo bằng tiến sĩ thì việc bằng thật và kiến thức giả thì nó lại càng nổi lên rất nhiều. Bởi vì ở Việt Nam khi tuyển lựa cán bộ thì họ không dựa trên các tiêu chí như về năng lực thực tiễn, kiến thức hay những luận án tốt nghiệp mang tính chất áp dụng thực tiễn hay không mà họ chỉ dựa vào bằng cấp. Tất cả đều mang tính chất rất hình thức. Cho nên những người học thì bận rộn mãi mê đi kiếm tiền và mua quan bán chức thì họ đâu có thời gian để họ tập trung vào đầu tư nghiên cứu về những đề tài mà họ mong muốn. Do đó những bằng đó thì thật nhưng kiến thức sâu rộng thì không có gì cả.

Làm sao để thống kê, làm sao để kiểm soát được tình hình như vậy thì nó phải thay đổi từ gốc của nó, đó là thay đổi hệ thống chính trị. Khi tuyển chọn cán bộ công chức thì người ta phải dựa trên năng lực thực tiễn của người cán bộ đó chớ không nhìn vào những hồ sơ bằng cấp mà người cán bộ đó nộp cho cơ quan tuyển chọn. Chỉ có thay đổi như vậy hoặc thông qua các kỳ thi tuyển một cách trực tiếp, người nào có tài, có năng lực thì sẽ được tuyển dụng. Thì lúc đó mới có thể thay đổi được tình trạng bằng thật mà kiến thức giả hiện nay ở Việt Nam.

Duy Khang: Thưa luật sư, vấn đề giáo dục ở Việt Nam hiện là một rừng vấn đề, nhưng theo luật sư thì vấn đề hàng đầu là vấn đề gì ạ?

Ls Nguyễn Văn Đài: Thể chế giáo dục ở Việt Nam thì nó chỉ là một hiện tượng bên ngoài phản ánh bản chất bản chất của hệ thống chính trị ở bên trong thì ở Việt Nam chưa có tự do dân chủ thật sự cho nên giáo dục cũng bị áp đặt những gì mà Đảng CS cầm quyền họ mong muốn duy trì quyền lực của họ, mục đích là làm sao để cho tầng lớp thế hệ trẻ Việt Nam họ không quan tâm đến tự do dân chủ. Và mục đích của cái giáo dục không phải là họ có chiến lược cho quốc gia, chiến lược cho dân tộc mà là chiến lược duy trì quyền lực của Đảng CS. Cho nên vấn đề lớn nhất của Việt Nam là phải thay đổi được cái hệ thống chính trị thiết lập một nhà nước dân chủ thì lúc đó nền dân chủ VN mới được cải cách thật sự, còn mọi sự hô hào cải cách trong thực tiễn nếu như không thay đổi căn bản hệ thống chính trị thì hô hào đó chỉ dừng lại ở mức độ hình thức thôi.

Duy Khang: Thưa luật sư, ông tân bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thiện Nhân đã tỏ ra năng động từ ngày nhận nhiệm vụ, luật sư có tin rằng ông tân bộ trưởng sẽ giải quyết được vấn đề giáo dục không ạ?

Ls Nguyễn Văn Đài: Vâng, từ khi ông tân bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thiện Nhân lên nắm quyền thì ông có rất là sốt sắng, năng động trong nhiều vấn đề. Nhưng mà vấn đề mấu chốt ở đây đó là ông được trao bao nhiêu quyền lực trong việc vấn đề cải cách giáo dục? Bởi vì về mặt Đảng, ông ta chỉ là uỷ viên trung ương thôi, ông ta không nằm trong bộ chính trị , mà tất cả các vấn đề ở Việt Nam từ giáo dục, an ninh quốc phòng, đến mọi thứ đều do bộ chính trị quyết định tất cả. Rồi các uỷ viên trung ương mà nắm các bộ chỉ triển khai những chỉ thị của trung ương. Còn nếu như việc cải cách, hay những việc làm sốt sắng của ông Nguyễn Thiện Nhân mà đụng chạm hay làm ảnh hưởng đến hệ thống chính trị của Đảng CS thì chắc chắn ý tưởng của ông ấy sẽ không được thực hiện trong thực tiễn, cho nên vấn đề là ông ta được trao bao nhiêu quyền lực là cái việc cải cách giáo dục được cấp trên của ông ta chỉ thị cho đến đâu, chứ bản thân ông ta, tự ông ta sẽ không làm được chuyện gì cả.

Duy Khang: Thưa luật sư, nhân dân vẫn nghe, học đường vẫn nói đến vấn đề tự do dân chủ ở trong trung học, đại học, theo luật sư Đảng CSVN lý giải như thế nào về độc quyền lãnh đạo trong điều 4 hiến pháp hay là người CS có định nghĩa khác về dân chủ, thưa luật sư?

Ls Nguyễn Văn Đài: Vâng, trong hiến pháp nước Việt Nam năm 1992 điều 4 quy định Đảng CS là lực lượng tiên phong của giai cấp nông dân, công nhân và trí thức là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hôi. Căn cứ điều này thì bộ máy của Đảng CS mà đặc biệt là bộ chính trị họ can thiệp vào tất cả mọi lãnh vực trong đời sống xã hội từ các cơ quan nhà nước, quốc hội, chính phủ, cảnh sát công an quân đội đến các tổ chức đoàn thể xã hội. Đối với đất nước có dân chủ tức là do người dân của nước mình làm chủ, quyền lực của người dân được thể hiện thông qua lá phiếu của họ, mỗi kỳ bầu cử nhân dân sẽ trao quyền cho một cá nhân hay là một Đảng phái nào đó để người đó làm thuê phục vụ cho người dân, nếu như nhiệm vụ của họ không hoàn thành thì nhân dân có quyền thay thế. Thế mà ở Việt Nam thì chỉ có một Đảng duy nhất là Đảng CS, họ đã tự ghi tên họ vào trong điều 4 hiến pháp, tự trao cho mình cái quyền lãnh đạo và điều hành đất nước cho nên là ở Việt Nam thì đảng Cộng Sản làm chủ chứ không phải là nhân dân Việt Nam làm chủ. Cho nên tất cả mọi định nghĩa khái niệm về dân chủ của những người Cs đưa ra thì nó chẳng có giá trị gì cả. Bởi vì đất nước này không phải do nhân dân làm chủ bởi vì nhân dân không có quyền lựa chọn, không có một sự lựa chọn nào khác ngoài sự lựa chọn đảng Cộng Sản.

Cho nên mặc dù trong lịch sử cũng như hiện nay đảng CS đã có rất nhiều sai lầm, về kinh tế, chính trị, ngoại giao để Việt Nam vẫn còn nằm trong những nước nghèo nàn lạc hậu nhất thế giới. Tệ nạn tham nhũng thì diễn ra ở khắp các cấp các ngành ở mọi địa phương. Đạo đức, lối sống xã hội thì ngày càng bị suy thoái. Cuộc sống người dân dân thì không được đảm bảo, về lương thực, thực phẩm… tất cả mọi thứ đều bị ô nhiểm. Nói chung cuộc sống của người dân về vấn đề an toàn thì không có gì đảm bảo nhưng người dân lại không có quyền để thay thế người làm thuê – người đày tớ của mình. Như vậy, theo quan điểm của tôi, tất cả mọi danh nghĩa của người CS đưa ra về một xã hội dân chủ đều không có ý nghĩa.

Một đất nước có dân chủ là phải xây dựng trên cơ sở người dân làm chủ thật sự và trong đó phải có nhiều đảng phái chính trị cạnh tranh với nhau. Mọi người dân đều được quyền bày tỏ hay đều được quyền tham gia vào tiến trình chung xây dựng một nhà nước xã hội. Và người dân sẽ là người trọng tài, hay người chủ, có quyền quyết định lựa chọn ai là người quản trị đất nước này và nếu người đó không hoàn thành thì người dân có quyền xử phạt người đó bằng cách loại họ ra khỏi chính trường.

Quan điểm của tôi là như vậy.

Duy Khang: Không còn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh, nhân đây chúng tôi cũng xin thay mặt quý thính giả và độc giả của Đối Thoại Online xin kính chúc luật sư và gia đình một mùa Giáng Sinh thật bình an và nhiều sức khỏe. Xin cám ơn luật sư đã dành thời giờ cho buổi trao đổi hôm nay. Xin kính chào và hẹn gặp lại ông trong dịp khác.

Ls Nguyễn Văn Đài: Cảm ơn anh Duy Khang và quý vị thính giả.

(20-12-2006) Chào Năm mới 2007

CHÀO NĂM MỚI 2007

Hà Nội, ngày 20-12-2006

Thời khắc đón chào năm mới 2007 đang đến gần, và năm 2006 đang dần khép lại với những sự kiện nổi bật trong năm về sự phát triển của phong trào dân chủ Việt Nam. Tạp chí Time của Á châu đã nhận xét: “ tương lai khi công cuộc dân chủ hoá Việt Nam thành công thì ngày 8 tháng 4 năm 2006 sẽ đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam”. Ngày 8-4-2006 bản Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam đã được công bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới, Khối 8406 ra đời tạo đà cho đảng Dân chủ Việt Nam khôi phục hoạt động và đổi tên thành đảng Dân chủ XXI, và từ đó lần lượt đến đảng Thăng Tiến được thành lập và công khai hoạt động trong nước. Tiếp đến là Công đoàn độc lập, Hội đoàn kết Công Nông, Ủy ban Nhân quyền Việt Nam, Hội dân oan Việt Nam. Mặc dù một số Ủy viên trung ương của đảng Dân chủ Nhân dân bị bắt, nhưng một số còn lại cũng đã công khai hoạt động của mình. Việc ra đời và công khai hoạt động của các chính đảng dân chủ, tổ chức chính trị, tổ chức bảo vệ nhân quyền là sự phát triển vượt bậc của phong trào dân chủ Việt Nam, điều này sẽ tạo điều kiện cho sự trưởng thành và phát triển trong năm 2007 và những năm tiếp theo hướng tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ với thể chế chính trị đa đảng, các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ. Tạo ra một luật chơi công bằng mà trong đó tất cả mọi người dân đều có cơ hội ngang nhau để tham gia ứng cử vào các vị trí lãnh đạo từ trung ương đến địa phương thông bầu cử tự do, dân chủ và công bằng dưới sự giám sát của quốc tế. Với niềm tin rằng công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam chắc chắn sẽ thành công bởi những lý do sau:

Thứ nhất, những yếu tố giúp cho đảng cộng sản thống trị và duy trì quyền lực trong những thập kỷ vừa qua đang ngày càng suy yếu và tan dã. Các yếu tố đó là: Độc quyền về kinh tế; độc quyền về tư tưởng; dùng vũ lực để khủng bố và trấn áp những người đối lập.

- Độc quyền về kinh tế: Từ năm 1986 bắt đầu mở cửa về kinh tế đã giúp cho nền kinh tế tư nhân của Việt Nam và cùng với tư bản nước ngoài đầu tư vào ngày càng phát triển mạnh mẽ, tỷ trọng trong nền kinh tế của tư bản trong nước và tư bản nước ngoài tại Việt Nam đang dần chiếm ưu thế vượt trội so với các doanh nghiệp do đảng cộng sản kiểm soát. Đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, với cam kết sau 12 năm Việt Nam sẽ trở thành một nền kinh tế thị trường thực sự. Sự độc quyền về kinh tế của đảng cộng sản đang dần dần bị thu hẹp và tiến tới bị xoá bỏ hoàn toàn. Đảng cộng sản không còn kiểm soát nền kinh tế theo ý muốn của họ được nữa, mà nền kinh tế Việt Nam phải được vận hành theo qui luật của nền kinh tế thị trường. Đảng cộng sản khi mất độc quyền về kinh tế thì tất yếu sẽ mất độc quyền về chính trị.

- Độc quyền về tư tưởng: Đảng cộng sản đang kiểm soát toàn bộ hệ thống truyền thông ở Việt Nam như báo chí, phát thanh, truyền hình,… Họ sử dụng truyền thông để tuyên truyền cho đường lối, chính sách và tư tưởng của họ. Nhưng ngày nay cuộc cách mạng về công nghệ truyền thông ngày một phát triển mạnh mẽ, không còn khoảng cách giữa các quốc gia, không có một giải pháp nào có thể ngăn cản được thông tin trong và ngoài nước. Đặc biệt giới trẻ Việt Nam với khao khát tìm kiếm thông tin và tri thức bên ngoài, họ đã vượt qua mọi trở ngại để tìm những điều họ muốn. Sự độc quyền về giảng dạy các môn học chính trị như chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong bực học phổ thông và đại học chỉ còn mang tính hình thức. Học sinh, sinh viên không có hứng thú với những môn học này, họ bị bắt buộc phải học và họ không còn nhớ những gì đã học sau khi đã trả bài thi cho thầy cô. Sự độc quyền về tư tưởng trong truyền thông và giáo dục đã bị phá vỡ, sự suy yếu là điều tất yếu.

- Việc khủng bố và trấn áp những người đối lập: Biện pháp trấn áp những người đối lập nhiều năm trước đây tỏ ra hiệu quả bởi điều này gây ra nỗi sợ hãi cho người dân. Người dân không dám ủng hộ những người hoạt động đối lập khi họ được tuyên truyền đó là những thành phần phản động, chống lại tổ quốc. Nhưng ngày hôm nay nhận thức của người đã thay đổi, họ không còn tin vào bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản nữa, mà có nhiều người dân còn công khai ủng hộ những người đối lập. Đồng thời những người đang tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở trong nước ngày một nâng cao bản lĩnh cũng như kinh nghiệm. Họ nhận được sự ủng hộ của người thân, bạn bè, những người xung quanh họ và đặc biệt sự ủng của cộng đồng quốc tế và người Việt hải ngoại. Những người đang tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền luôn sẵn sàng chấp nhận sự sách nhiễu từ phía chính quyền cộng sản như việc triệu tập thẩm vấn, cắt điện thoại, internet, bị đuổi việc, khám nhà, tịch thu điện thoại, máy tính, máy ảnh,…Thậm trí sẵn sàng bị bắt và ngồi tù như anh Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, … và gần đây nhiều anh em bị bắt như Phạm Bá Hải, Vũ Ngọc Quang, Vũ Hoàng Hải, Trương Quốc Huy, … Khủng bố, trấn áp và tù đầy không bao giờ làm họ bị nao núng, sờn lòng nhưng làm cho ý trí, quyết tâm của họ nâng cao hơn bao giờ hết, tất cả họ đều tin rằng ngày mà cả dân tộc Việt Nam sẽ được hưởng tự do, dân chủ thực sự không còn bao xa nữa.

Thứ hai, những vấn nạn xã hội: Tham nhũng đã trở thành quốc nạn, thành giặc nội xâm và là kẻ thù của cả dân tộc Việt Nam. Tham nhũng đang lan tràn khắp nơi, ở mọi nghành, mọi cấp, nó làm suy thoái lối sống và đạo đức xã hội. Mà những quan chức tham nhũng 100% là đảng viên cộng sản. Niềm tin của nhân dân vào đảng cộng sản giảm sút nghiêm trọng, nhân dân đang mong muốn có sự thay đổi về chính trị.

Thứ ba, áp lực đổi mới nằm ngay trong nội bộ của đảng cộng sản, áp lực từ giới trí thức, khoa học, đòi hỏi quyền chính trị của giới chủ doanh nghiệp. Áp lực từ cộng đồng quốc tế bên ngoài buộc chính quyền cộng sản phải tôn trọng các quyền con người của người dân trong nước.

Thứ tư, tính chính nghĩa của công cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam: Xây dựng đất nước Việt Nam có tự do, dân chủ với thể chính trị đa nguyên và ở trong đó các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ đó là chân lý và là khát vọng, ý nguyện của cả dân tộc Việt Nam, nó phù hợp với tiến trình phát triển lịch sử xã hội của loài người. Không có một bộ máy đàn áp cường quyền nào có thể ngăn được. Vì tính chính nghĩa của công cuộc đấu tranh này nên sẽ được cả dân tộc Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoài nước ủng hộ. Đồng thời cũng được toàn thể nhân dân và chính phủ các nước trên thế giới ủng hộ.

Công cuộc đấu tranh dân chủ hoá đất nước thành công sớm hay muộn, điều này phụ thuộc rất lớn vào ý thức tham gia chính trị của người dân, trong đó thế hệ trẻ Việt Nam nắm vai trò quyết định. Tham gia chính trị để xây dựng Tổ quốc Việt Nam tự do, dân chủ và phú cường không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của thế hệ trẻ Việt Nam ngày hôm nay đối với tương lai của dân tộc Việt Nam. Thế hệ trẻ Việt Nam không thể thờ ơ trước vận mệnh của dân tộc. Cơ hội và sứ mệnh lịch sử đang được trao vào tay họ.

Nguyễn Văn Đài, luật sư từ Hà Nội.